Thời kì độc lập và tự chủ Dân_số_Việt_Nam_qua_các_thời_kỳ

Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê

Từ sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng làm Tiết độ sứ, người Việt bắt đầu khôi phục quyền tự chủ. Đương thời, phương bắc rơi vào thời kì Ngũ Đại Thập Quốc, giao tranh liên miên không dứt. Ngay từ cuối thời Đường khi loạn Hoàng Sào bùng nổ làm mấy trăm vạn bá tính Giang Nam bỏ mạng, đã có rất nhiều người chạy xuống phương nam để tránh chiến họa, trong đó có cả nhiều thủ lĩnh Trung Hoa chạy loạn xuống Tĩnh Hải quân lập ấp mà con cháu họ sau này trở thành các sứ quân như Đỗ Cảnh Thạc và sứ quân Trần Lãm. Năm 906, tướng Nguyễn Nê theo lệnh vua Đường đem 70.000 quân sang nước Việt đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả, không đem quân quyết chiến mà lại lấy vợ Việt và sinh ra ba con trai sau này là các sứ quân Nguyễn KhoanNguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn Siêu. Binh sĩ đi theo phần nhiều cũng ở lại bản địa, lấy vợ sinh con, không về bắc nữa.

Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đến mùa xuân năm 939 thì chính thức xưng vương, tức là Tiền Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập Dương thị làm hoàng hậu; đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Dưới thời Ngô vương, dân số Việt Nam có khoảng 3.600.000 người. Năm 944, Ngô vương băng hà, Việt Nam rơi vào loạn 12 sứ quân. Các sứ quân liên tục tranh giành nhau, giao chiến không ngừng suốt nhiều năm liền. Binh lính và dân chúng bỏ mạng vô số.

Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh trấn áp quần hùng, thống nhất thiên hạ, lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Cả nước có khoảng 3.500.000 người

Năm 981, Lê Hoàn lên ngôi vua, lập ra nhà Tiền Lê, chỉ huy quân dân đánh tan quân Tống xâm lược, đồng thời dẹp tan các thế lực chống đối trong nước.

Ước tính khi Ngô vương giành được độc lập, Việt Nam có khoảng 3.5 triệu nhân khẩu. Đến khi Lê Hoàn đánh tan quân Tống, thiên hạ trải qua nhiều năm chinh chiến, từ loạn 12 sứ quân cho đến họa xâm lăng và nhiều năm thanh trừng các thế lực chống đối trên toàn quốc của vua Lê Đại Hành, cả nước chỉ còn khoảng hơn 3 triệu người.

Thời Lý - Trần

Sau khi Lê Đại Hành băng hà ở điện Trường Xuân năm 1005, con là Long Việt lên ngôi, xưng Lê Trung Tông. Trung Tông ở ngôi được 3 ngày thì bị em là Lê Long Đĩnh giết chết để cướp ngôi. Đương thời chính sự thối nát, nhà vua tàn bạo hoang dâm nên lòng người không phục. Năm 1009, Ngọa Triều qua đời lúc mới 24 tuổi, Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn được quần thần tôn lên ngôi vua, lập ra nhà Lý, đặt niên hiệu Thuận Thiên. Năm 1054, Lý Thái Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt, tiến hành đại xá thiên hạ, đồng thời thống kê dân số toàn quốc được hơn 3.790.000 nhân khẩu.

Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông. Triều Trần chính thức bước lên vũ đài lịch sử thay thế triều Lý. Thời Trần, các nam đinh được chia thành ba hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60 tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi).

Khi quân Mông Cổ đánh bại nhà Nam Tống, một số quan lại địa phương nhà Tống đã quy phụ nhà Trần, như trường hợp Hoàng Bính đem dâng phủ Tư Minh (nay là Bằng Tường) năm 1263, và có một lượng lớn dân chúng và quân binh nhà Tống chạy từ phương bắc xuống Việt Nam xin tị nạn để tránh các cuộc thảm sát của quân Mông Cổ. Nhà Trần đem dân Tống đi phân bố đến các nơi để khai khẩn đất hoang, mở rộng sản xuất, còn các đạo quân Tống rút chạy đến Việt Nam đều được phân bổ vào các đội quân của triều đình, với số lượng không quá lớn để tránh họ làm phản. Thủ lĩnh của các đạo quân này vẫn là người Tống, ví dụ như tướng Triệu Trung chỉ huy 4000 quân Tống dưới quyền Trần Nhật Duật đã tham gia trận Hàm Tử. Người Hán trong quân Mông Nguyên nhìn thấy quân Tống thì đều tưởng nhớ cố quốc nên không còn ý chí chiến đấu, đều hàng cả.

Quân Mông Nguyên khi xâm chiếm Đại Việt thường tàn sát dân chúng và binh lính Đại Việt bị bắt rất tàn bạo, rất nhiều người chết dưới tay chúng. Do có nạn dân và quân binh nước Tống tị nạn bù đắp vào tổn thất của Đại Việt trong chiến tranh nên tổng nhân khẩu toàn quốc sau ba lần quân Mông Nguyên xâm lược về cơ bản không thay đổi.

Thời nhà Hồ và thuộc Minh

Năm 1400, nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, tiến hành cải cách quy mô lớn. Các cuộc điều tra dân số thời nhà Hồ thống kê được con số 1.039.045 hộ, tức là khoảng hơn 4.000.000 người trên cả nước. Tuy nhiên con số thực tế có thể cao hơn khoảng 50% do thời kì này tương đối hỗn loạn sau cuộc chính biến và chính quyền thường không thống kê được những người làm nghề kép hát và những người lưu vong từ cuối thời nhà Trần do các cuộc chiến loạn giữa các thế lực địa phương và khi quân Chiêm Thành tấn công ra Thăng Long.

Năm 1406, quân nhà Minh xâm lược nước Việt. Quân đội nhà Hồ phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề trước sức tấn công như vũ bão của quân giặc. Quân Minh dưới quyền Trương Phụ cũng tàn sát dân chúng và tù binh. Sử miêu tả "làng mạc đìu hiu hoang vắng, trăm dặm không thấy bóng người, khói lửa chiến tranh bao trùm khắp nơi". Sau cơn đại nạn, dân số Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng, ước tính chỉ còn quá nửa.

Người Minh dẫn số liệu của nhà Hồ cho thấy họ đã chiếm được 48 phủ, châu, 168 huyện, 782.250 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 con trâu bò, 8.865 chiếc thuyền. Theo Minh sử, năm 1408 nhà Minh kiểm soát 3.120.000 người và 2.087.500 người Man trên đất Đại Ngu cũ.

Thời Hậu Lê

Thời Lê sơ

Sau khi đánh đuổi quân Minh xâm lược, khôi phục chủ quyền, Lê Thái Tổ rất quan tâm chú ý đến việc phục hồi sức dân, tái ổn định đất nước sau 20 năm chiến loạn. Ông đã cho quân lính trở về nhà tham gia sản xuất, chỉ giữ lại 10 vạn quân trong tổng số 35 vạn để canh giữ đất nước. Triều đình đem những tù binh người Minh vào phương nam khai khẩn đất hoang, tăng cường sản xuất. Nhờ những chính sách đó mà dân số Việt Nam tăng mạnh trở lại

Năm 1490, Lê Thánh Tông tiến hành cải cách hành chính trên toàn quốc, đổi phủ thừa tuyên thành các xứ. Như vậy trên cả nước có 13 xứ, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 37 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Mỗi xã thường không quá 500 hộ, nếu nhiều hơn 700 hộ thì sẽ tách ra làm hai xã nhỏ. Theo cánh tính này thì đến năm 1490, toàn quốc có khoảng 8 triệu nhân khẩu.

Thời nhà Lê Trung hưng

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc. Vài năm sau, chiến tranh Nam Bắc triều nổ ra và lan ra mạnh mẽ trên cả nước. Cuộc nội chiến kéo dài 60 năm khiến cho cả một vùng Nghệ An xơ xác điêu tàn "trăm dặm không thấy bóng người". Các nhà nghiên cứu tổng kết: trong 60 năm chiến tranh (1533-1592) giữa Lê và Mạc đã diễn ra 38 trận lớn nhỏ, cả hai bên đều huy động gần hết các lực lượng lao động chính trong xã hội vào cuộc chiến cùng những nhân tài, vật lực trong tay. Sau mỗi trận đánh, lực lượng mới lại được huy động để bù đắp cho lực lượng tổn thất trên chiến trường.

Cuộc chiến đã tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân lao động. Sản xuất bị đình trệ, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế toàn quốc. Không những nông dân, những người thợ thủ công cũng chịu mức thuế khóa nặng nề để cung ứng cho cuộc chiến.

Tại các khu vực chiến trận tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang. Năm 1592, quân Nam triều chiếm được Thăng Long, nhà Mạc rút về cát cứ Cao Bằng mãi đến tận năm 1677 mới bị diệt. Dân gian còn lưu lại những câu ca dao nói về sự khổ cực của nhân dân trong việc lao dịch, quân ngũ vì chiến sự ở Cao Bằng:

Cái cò lặn lội bờ sôngGánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ nonNàng về nuôi cái cùng conĐể anh đi trảy nước non Cao Bằng

Ngay sau khi kết thúc cục diện Nam Bắc triều thì lại bắt đầu giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, Đàng Ngoài và Đàng trong đối lũy nhau trong gần 150 năm. Sau khi kết thúc chiến loạn, cả hai đều ra sức phát triển thế lực để chống lại đối phương. Họ Trịnh tập trung bình định lãnh thổ, trong khi họ Nguyễn ra sức mở rộng về phía Nam và thu nhận những người Minh hương ở Nam Bộ.

Năm 1750, Đàng Trong thống kê được khoảng 1.500.000 người, còn Đàng Ngoài là khoảng gần 4.000.000 người

Thời nhà Nguyễn

Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn, nước Đại Việt có 5.780.000 người. Đến năm 1836 thì vua Minh Mạng hoàn thành công cuộc lập địa bạ trên toàn quốc (hiện nay còn lưu giữ được 10.044 tập gồm 15.000 quyển địa bạ), là kho tàng vô giá để mô tả cương vực nước Việt ở từng ngôi làng, từng mảnh ruộng. Dân số nhà Nguyễn thống kê được là 7.764.128 người.

Năm 1858, quân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, đến năm 1883 thì hoàn tất. Tính chung Bắc Kì có 37 phủ, 88 huyện, 38 châu, gồm 1264 tổng, 10105 xã, 29 mường, 2141 bản và 4 đạo quan binh ở vùng biên giới. Trung Kì có 3 đạo, 33 phủ, 58 huyện, 541 tổng, 9093 xã và 6 thành phố. Nam Kì có 78 quận, 197 tổng Kinh và 10 tổng Thượng, 1470 xã.

Năm 1870, Việt Nam có khoảng 10.000.000 người, đến năm 1901 thuộc Pháp là 13.000.000 và tăng lên 22.600.000 vào năm 1943.